Chính sách đối ngoại Ekaterina_II_của_Nga

Nếu trong lĩnh vực đối nội, Ekaterina không hoàn toàn thực hiện được những mong muốn của mình, thì trong lĩnh vực đối ngoại bà đã làm được nhiều thành tích hơn. Những sự thành công này một phần nhờ vào tài năng và sự lãnh đạo của Ekaterina, một phần cũng nhờ vào việc Ekaterina đã tập hợp được những cận thần xuất sắc và tài ba.[9] Đế quốc Nga dưới thời Ekatêrina II đã thực hiện nhiều hoạt động bành trướng lãnh thổ và thôn tính được các khu vực Bắc ven biển Đen, Krym, Bắc Kavkaz, vùng lãnh thổ phía Tây Ukraina, Bạch Nga, Litva với tổng diện tích lên tới 518 nghìn cây số vuông (20 vạn dặm vuông).

Rõ ràng việc củng cố chế độ quân chủ chuyên chế là quốc sách đối nội đầu tiên của Ekaterina II. Trong chính sách bang giao với các nước châu Âu, Ekaterina II cũng đặt mục đích củng cố Đế quốc Nga trên vũ đài chính trị châu lục này, nhất là trong tình hình các cường quốc châu Âu có thuộc địa ở Nam ÁĐông Nam Á đang phát huy ảnh hưởng của mình, và Ekaterina II và triều đình Nga cảm thấy lo ngại trước tình thế lúc bấy giờ đối với nước Nga chưa có hải quân ở Kamchatkacảng trên bờ biển Okhotsk Thái Bình Dương. Nhìn chung tất cả những chính sách đối ngoại của Ekaterina hoàn toàn nhằm mục đích phục vụ cho cái mà bà coi là quyền lợi của nước Nga, và gốc tích dân tộc Đức dường không có ảnh hưởng gì đến quyết sách của nữ Nga hoàng[10].

Từ sau khi hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Mông Cổ, nước Nga phải đối phó với ba đối thủ chính trên lĩnh vực đối ngoại: đế quốc Ottoman, Vương quốc Ba Lan và Vương quốc Thụy Điển. Thụy Điển đã suy yếu sau khi bị Pyotr I đánh bại trong cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm và không còn là vật cản trên con đường bành trướng của Nga nữa. Ba Lan cũng bị những mâu thuẫn nội bộ xâu xé và hoàn toàn nằm dưới sự bảo hộ của Nga từ thời Pyotr I. Chính sách của Nga đối với Ba Lan là duy trì một quốc gia Ba Lan nguyên vẹn nằm dưới tầm ảnh hưởng của Nga, mưu dùng Ba Lan làm một nước đệm ngăn cách Nga với các cường quốc châu Âu. Tuy nhiên, đổi lại Nga phải chấp nhận từ bỏ việc bành trướng sang phía Tây, điều mà Đại đế Ekaterina II ít mong muốn nhất.[9]

Lúc này chỉ còn thế lực của đế quốc Ottoman, đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ

Nữ hoàng Catherine trong quân phục cửa lữ đoàn Preobrazhensky vẽ bởi Vigilius Eriksen.

Đế quốc Ottoman cùng với chư hầu của mình là Hãn quốc Krym đã nắm giữ các lãnh thổ ở phía Nam Ukraina và chặn con đường tiến ra biển Đen của Nga. Do đó, Nga buộc phải khuất phục Thổ để mở con đường tiền xuống khu vực này. Trong khi Nga lên hàng liệt cường dưới các triều vua Pyotr I và Ekaterina II,[11] Thổ Nhĩ Kỳ là một đế quốc dai sức. Suốt từ thời Pyotr I, Nga đã nhiều lần lâm chiến với Thổ nhưng rốt cuộc cũng không thu được thành quả gì đáng kể. Và việc gây chiến với họ cũng động chạm tới quyền lợi của nhiều quốc gia châu Âu, từ Áo, Ba Lan, Phổ cho đến Anh, Thụy Điển. Vì vậy, chính phủ Nga hoàng không thể một mình gây chiến với Thổ mà phải kiếm tìm một liên minh vững chắc.[9][10]

Trước hết, nước Nga cần có một liên minh. Từ sau thời Pyotr I tới nay nước Nga luôn đứng giữa hai lựa chọn: 1) Áo, Pháp; 2) Anh, Phổ. Lần này, để nhanh chóng chấm dứt của cuộc chiến tranh Bảy năm với Áo và Pháp, Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế quyết định liên minh với Phổ dù trong chỉ dụ đầu tiên ngày 28 tháng 6 năm 1762, bà đã gọi vua Friedrich II Đại Đế là "kẻ thù tàn bạo nhất của nước Nga"[10].[12] Giành được sự ủng hộ của Phổ cũng cần thiết trong việc Ekaterina đưa Stanisław August Poniatowski - một kẻ không có cá tính và nghị lực lên làm vua Ba Lan hòng giúp Nga khống chế nước này.[10][13] Nhưng bực tức trước ý đồ nô dịch Ba Lan của các thế lực ngoại bang, giới quý tộc Ba Lan đã khích động nhân dân nổi dậy chống lại Poniatowski. Còn Pháp vì lo sợ liên minh Nga - Phổ nên đã phá Nga bằng cách ủng hộ Ba Lan và khích Thổ gây chiến chống Nga. Cuộc chiến tranh Nga - Thổ bùng nổ.

Với ưu thế về quân số, đế quốc Ottoman chủ động cắt quan hệ ngoại giao và đến tháng 9 năm 1768 họ tuyên chiến với Nga. Trong chiến tranh, quân Ottoman liên tiếp bị đánh bại bởi quân Nga dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh tài ba. Tướng Aleksandr Golitsyn đánh bại quân Ottoman trên sông Dnepr và tiến vào Moldavia, đánh bại quân chư hầu của Hãn quốc Krym và giành được chiến thắng quan trọng ở trận Kagul (1770). Đôngôruki chọc thủng phòng tuyến Pêrêkốp và tàn phá Krym. Một đạo quân Nga khác chiếm Benđơ và tràn vào Bulgaria (1771). Còn đô đốc Aleksey Orlov đã tiêu diệt hạm đội Ottoman ở đảo Kiôxơ, trong trận Chesmen và kích động người dân ở Morea nổi loạn chống Sultan của đế quốc Ottoman (1770).[13] Sau đó chiến cuộc tạm dừng và hai bên mở một cuộc đàm phán, nhưng cuộc thương lượng nhanh chóng đi vào bế tắc và chiến tranh tiếp tục bùng nổ vào năm 1772. Tuy nhiên quân Ottoman lại tiếp tục thất bại. Đại quân Nga tràn vào Bungari. Trước tình cảnh đó, triều đình Ottoman hoảng sợ, họ buộc phải ký hòa ước Küçük Kaynarca (1774), từ bỏ các pháo đài tại Azov và tại Krym, thừa nhận nền độc lập của Hãn quốc Krym và mở cửa các cảng biển Đen cho tàu Nga ra vào.[13] Giờ đây, Đại đế Ekaterina II đã hoàn tất được mơ ước của Nga hoàng Pyotr I ngày xưa: mở một con đường ra biển Đen.

Sau cuộc chiến, Hãn quốc Krym nhanh chóng nằm dưới sự ảnh hưởng của Nga. Vào năm 1783, Krym chính thức trở thành một lãnh thổ của Nga dưới sự cai quản của Phó vương Grigory Potyomkin. Năm 1787, Potyomkin đã tổ chức một chuyến tuần du hoành tráng ở Krym với sự tham gia của các sứ thần Áo, Pháp và Anh nhằm phô diễn cho châu Âu thấy sự cường tráng của đế quốc Nga. Tuy nhiên chuyến tuần du đã khiến triều Ottoman tức giận và vào tháng 6 cùng năm, chiến tranh Nga - Thổ lại bùng nổ. Tuy nhiên quân Ottoman lại chịu nhiều thất bại thảm hại ở trên bộ lẫn trên biển trước các tướng Nga là Suvorov và Orlov. Cuối cùng, sau khi pháo đài quan trọng Ismail bị Nga chiếm vào tháng 12/1790, triều Ottoman phải ký hòa ước Iaşi vào ngày 9 tháng 1 năm 1792, qua đó họ phải cắt thêm một phần lãnh thổ nằm giữa hai con sông Bug Nam và sông Dnepr cho Nga, nơi sau này cảng Odessa được xây dựng.[14] Hòa ước này đã cho phép người Nga nắm quyền kiểm soát khu vực biển Đen.

Ba lần chia cắt Ba Lan

Nữ hoàng Catherine năm 1780, vẽ bởi Johann Baptist von Lampi the Elder.

Hai năm trước khi cuộc chiến tranh lần đầu với đế quốc Ottoman kết thúc, quan hệ giữa Đế quốc Nga và Liên bang Ba Lan-Litva đã xảy ra một sự biến quan trọng: việc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất (1772). Cuộc chiến tranh Bảy năm đã đem lại cho nước Nga một thành tựu là gạt bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nước Pháp và Thụy Điển vào Liên bang Ba Lan - Litva.[4] Ngay từ năm 1769, theo gợi ý của vua nước Phổ là Friedrich II Đại đế, ba liệt cường Nga, Áo, Phổ đã ngầm bàn thảo với nhau về việc chia sẻ lãnh thổ của Ba Lan. Sau khi đánh bại liên quân Nga - Áo - Pháp và xóa bỏ dự định chia cắt Vương quốc Phổ của liên quân này, vua Friedrich II Đại Đế lo sợ Quân đội Nga sẽ xâm chiếm kinh thành Constantinopolis của Đế quốc Ottoman, do đó ông đề nghị Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế phải trả giá cho những chiến thắng của bà trước quân Ottoman: cái giá đó là Vương quốc Ba Lan chứ không phải là Đế quốc Ottoman.[15] Vào năm 1770, ở miền Nam Ba Lan xảy ra một cuộc bạo loạn và vua Poniatowski yêu cầu Đế quốc Áo phái quân tới chi viện. Người Áo đã giúp Ba Lan dẹp cuộc nổi loạn, nhưng cũng thừa cơ chiếm luôn một phần lãnh thổ của Liên bang Ba Lan-Litva. Đế quốc Nga và Vương quốc Phổ nghe tin hết sức sốt ruột, liền triệu tập với Áo một cuộc hội nghị để bàn bạc việc chia sẻ lãnh thổ Ba Lan. Ngày 5 tháng 8 năm 1772, ba nước ký điều ước chia cắt Ba Lan. Liên bang Ba Lan-Litva lúc này đang suy yếu buộc phải chịu mất hai phần bảy lãnh thổ và 5 trong số 12 triệu dân. Đế quốc Nga được chia miền Tây Belarus (không bao gồm Minsk) rộng 92 nghìn cây số vuông với 1,3 triệu dân.[16][17]

Chịu ảnh hưởng của cuộc Đại cách mạng Pháp (1789), và đương lúc Nga còn đang bận bịu trong cuộc đàm phán với đế quốc Ottoman, nhân dân Ba Lan lại đứng lên khởi nghĩa (1791). Một đạo quân Nga được phái sang. Và kết quả là việc chia cắt Ba Lan lần thứ hai - sản phẩm của sự hợp tác giữa Nga với Phổ, nước mà trước đó không lâu vừa mới đứng về phía Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến Nga - Thổ. Lần này Nga nhận được phần còn lại của Belarus, Ukraina và phân nửa xứ Livônia; tổng cộng Nga chiếm một vùng lãnh thổ rộng 25 vạn cây số vuông với 1 triệu dân.[17][18]

Không cam chịu, người Ba Lan lại nổi dậy, và lần này Nga lại tiếp tục cùng với Áo và Phổ thẳng tay đàn áp. Và việc chia cắt Ba Lan lần thứ ba diễn ra vào năm 1795, lúc này Nga được chia phần còn lại của xứ Livônia và miền Cuốclen với tổng diện tích 12 vạn cây số vuông và dân số 1,2 triệu người. Quốc gia Ba Lan độc lập bị xóa tên khỏi bản đồ châu Âu thời bấy giờ.[17][18]

Sau ba lần tham gia chia cắt Ba Lan, Đế quốc Nga đã kiểm soát được một vùng lãnh thổ rộng đến 462000 cây số vuông với 3,5 triệu dân (62% diện tích và 45% dân số Ba Lan lúc đó)[17] bao gồm toàn bộ khu vực miền Đông Baltic, thay thế vai trò của Thụy Điển tại miền Baltic, cũng như thu hồi lại gần như toàn bộ lãnh thổ của nhà nước Nga Kiev xưa kia. Nhưng Nga cũng phải trả một cái giá lớn cho những gì mà nó giành được. Có nhận định cho rằng, những sự kiện diễn ra sau đó cho thấy Ekaterina đã phạm một sai lầm không thể sửa chữa được trong quan hệ với Ba Lan: vai trò chủ đạo của Ekaterina II trong các lần chia cắt Ba Lan đã để lại tác hại lâu dài trong quan hệ hai nước, gây ra mối thù hằn, ác cảm dai dẳng kéo dài cho đến tận ngày nay. Việc thống trị Ba Lan và các dân tộc vùng Baltic sẽ gây cho Nga nhiều vấn đề nan giải sau này. Đành rằng trước đây Ba Lan đã từng đem quân xâm lược Nga và đe dọa đến độc lập chủ quyền của Nga, nhưng sau đó Ba Lan đã bị Nga đánh bại và suy yếu. Kể từ thời vua Pyotr I Đại Đế, Ba Lan đã hoàn toàn nằm trong sự khống chế của Nga. Thêm nữa việc phân chia Ba Lan đã mang lại lợi ích lớn lao cho Vương quốc Phổ:[19] khu vực Pomerania và Đông Phổ đã được thống nhất về mặt lãnh thổ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường sức mạnh của mình. Điều này mang lại một mối đe dọa lớn đối với Đế quốc Nga vì ngay từ thế kỷ thứ 10, Đế quốc La Mã Thần thánhĐức Quốc xã sau này luôn theo đuổi chính sách "Đông tiến" đe dọa đến sự tồn vong của các dân tộc Xlavơ trong đó có người Nga.[20]

Quan hệ với các nước châu Âu

Mặc dù hiểu rõ "di sản" của chế độ quân chủ chuyên chế của mình, Đại đế Ekaterina II luôn mong muốn các quốc gia khác công nhận Nga là một quốc gia chịu ảnh hướng của trào lưu Khai sáng. Bà biến nước Nga thành người hòa giải các mâu thuẫn và xung đột giữa các vương quốc châu Âu  – điều mà sau này vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nước Anh sẽ thực hiện. Vì vậy, Đại đế Ekaterina II đã đứng ra làm trọng tài trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern giữa Đế quốc ÁoVương quốc Phổ (1778 - 1779); cũng như cuộc chiến tranh Bảy năm trước kia, nước Áo lại bị nước Phổ đánh bại trong cuộc chiến tranh này[21]. Năm 1780 bà lập ra Liên minh các nước trung lập vũ trang với mục đích bảo vệ những đội thuyền trung lập đến từ Hải quân Hoàng gia Anh trong cuộc Cách mạng Mỹ (1775 - 1783).

Bước vào thập niên 1780, Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế và Quốc vương Friedrich II Đại Đế là hai nhân vật duy nhất có uy thế anh hùng trên toàn cõi châu Âu. Nữ hoàng Áo Maria Theresa qua đời vào năm 1780, con bà là Hoàng đế Joseph II lên nắm Hoàng quyền. Vào năm 1781, liên minh phòng thủ Nga - Áo được thành lập, và liên minh Nga - Phổ bị xóa sổ.[22]

Vương quốc Thụy Điển vốn bị ảnh hưởng bởi nước Pháp nhưng với cuộc chiến tranh Bảy năm thì nước Nga đã xua tan ảnh hưởng này.[4] Từ năm 1788 đến 1790, Đế quốc Nga bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh chống Vương quốc Thuỵ Điển dưới thời vua Gustav III, một người cháu gọi Đại đế Ekaterina II bằng dì. Lo lắng trước những chiến thắng liên tiếp và thanh thế càng lúc càng lớn của nước Nga trong cuộc chiến tranh chống Đế quốc Ottoman, các nước Phổ, Anh, Hà Lan đã đề nghị triều đình Gustav III xua quân tấn công Nga khi nước này còn đang bận bịu trong cuộc chiến tranh với Ottoman.[18]. Tuy nhiên, trái với dự tính của Gustav III, Quân đội Thụy Điển đã bị Hạm đội Baltic của Nga đánh bại. Việc Vương quốc Đan MạchNa Uy tuyên chiến với Thụy Điển vào năm 1788 (xem Cuộc chiến tranh Sân khấu), tình thế của Vương quốc Thụy Điển càng trở nên bi đát hơn. Tuy nhiên sau cùng thì người Đan Mạch cũng bị đẩy lui và vua Gustav III đập tan tác quân Nga tại Trận hải chiến Svensksund (1790). Hai nước quyết định ký Hòa ước Värälä (14/8/1790) với hiệu lực 20 năm, theo đó hai bên phải tôn trọng nguyên trạng lãnh thổ của đối phương như trước cuộc chiến tranh. Như vậy là Vương quốc Thụy Điển đã thoát khỏi số phận của Liên bang Ba Lan - Litva trước kia.[18].

Khu vực Thái Bình Dương

Tình hình từ cuối thập niên 1760 ở miền Bắc Thái Bình Dương khi Ekaterina II chưa lên ngôi đã đặt đế quốc Nga ở vào vị trí thua kém so với ba cường quốc Anh, PhápTây Ban Nha về chính sách gây ảnh hưởng của nước mình vượt ra ngoài biên giới. Chỉ vài năm sau khi Ekaterina II lên ngôi, chính phủ Tây Ban Nha đã phái 5 đoàn thám hiểm đến bờ biển bán đảo California phía Tây Bắc Mỹ vào năm 1769. Cũng vào khoảng thời gian đó để gây ảnh hưởng của đế quốc Nga ra bên ngoài, người Nga đã có đoàn thám hiểm eo biển giữa châu Áchâu Mỹ. Trong khi đi tìm eo biển này, người Nga đã bắt gặp một đoàn thám hiểm thứ ba do James Cook chỉ huy chỉ huy đã đặt chân lên bán đảo Alaska phía Tây Bắc châu Mỹ và bán đảo Kamchatka phía Đông Bắc châu Á. Thời gian này, các cường quốc cạnh tranh nhau ở châu Âu đã có thuộc địa của mình tại các nước Đông Nam Á và Ấn Độ. Dựa vào các thuộc địa này, các đại đế quốc châu Âu phát huy ảnh hưởng của mình trên vùng biển Thái Bình Dương một cách hiệu quả hơn. Tình hình này buộc đế quốc Nga không thể khoanh tay đứng nhìn các đại đế quốc châu Âu bỏ xa mình. Triều đình Nga hoàng của Ekaterina II ra tuyên bố chính thức với những phát hiện của người Nga ở vùng đất phía Tây Bắc Bắc Mỹ. Ngày 28 tháng 12 năm 1786, Nữ hoàng Nga ký chiếu chỉ điều từ biển Baltic một đoàn thám hiểm vòng quanh thế giới dưới sự chỉ huy của G.I. Mulovski đến bán đảo Kamchatka. Ủy ban Hải quân của Chính phủ Hoàng gia gửi tới Mulovski lời dặn nói rõ sau khi mô tả và ghi vào bản đồ những hòn đảo giữa Kamchatka và Nhật Bản thì phải đưa những hòn đảo ấy vào danh sách sở hữu Nhà nước của Đế chế Nga, cắm quốc huy và chôn xuống đất ở những nơi cần thiết những huy chương có ghi chữ Nga và chữ Latin. Cuộc chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ và Nga - Thụy Điển làm cho cuộc thám hiểm này không thực hiện được, song chủ trương chính sách đối ngoại của Đế quốc Nga chứng tỏ Ekaterina II vẫn tiếp tục chính sách của Pyotr Đại đế là khẳng định vị thế đại đế quốc của Nga trong châu Âu và bên ngoài châu Âu.

Cuối đời trong khi bài trừ ảnh hưởng của Đại cách mạng Pháp lan truyền sang nước Nga, Ekaterina II vẫn chủ trương tiếp tục củng cố vị trí đế quốc của Nga ở vùng biển Thái Bình Dương. Đặc biệt thời gian này (năm 1792) để mở rộng buôn bán ở khu vực Thái Bình Dương, một đoàn thám hiểm người Nga đã đặt chân đến đảo Hokkaido của Nhật Bản theo sáng kiến của viện sĩ Erik Laksman.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ekaterina_II_của_Nga //nla.gov.au/anbd.aut-an35026586 http://europeanhistory.about.com/od/catherinethegr... http://womenshistory.about.com/od/catherinegreat/p... http://www.datesofhistory.com/Catherine-II-the-Gre... http://books.google.com/books?id=E8H08OiOouoC&pg=P... http://www.imdb.com/title/tt0024962 http://www.imdb.com/title/tt0025746/ http://members.tripod.com/~Nevermore/CGREAT.HTM http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://www.fordham.edu/halsall/mod/18catherine.htm...